Đoạn trích “Trao duyên” là lời Thúy Kiều nói với Thúy Vân khi muốn nhờ người chị trả nghĩa cho Kim Trọng. Qua đây, Nguyễn Du đã khắc họa bi kịch tình yêu, cùng số phận bất hạnh cũng như nhân cách cao đẹp của Thúy Kiều. Bài viết sẽ được đưa vào chương trình Ngữ văn lớp 10.
Sau đây Download.vn sẽ giới thiệu về tác giả Nguyễn Du, nội dung đoạn trích “Trao duyên”. Mời học sinh của bạn tham gia.
ban ơn
Tin tôi nhận, ngồi xuống lạy rồi tôi sẽ nói, Giữa đường đứt gánh tình Keo trải tơ thừa cho tôi mặc Từ khi gặp Kimi, Khi người thờ phụng ước ngày, khi chén đêm thề .Nơi nào có giông tố nào trọn chữ hiếu đôi bên Ngày xuân còn dài ta ngậm ngùi máu đào thay nước mới Dù thịt nát xương mòn .Nếu đã là vợ chồng thì may mắn không bao giờ quên được một người! Đánh mất ai còn chút niềm tin, Phím đàn với nén nhang nguyền mai sau. nhang đó, so phím này. Ngắm cỏ cây, ngắm gió rồi sẽ về. Hồn còn mang nặng lời thề, không lời, Rảy chén nước cho kẻ oan. Giờ chốt gãy đã gãy, Kể sao cho xiết muôn vàn mối tình! Trăm ngàn tấm thân tình. Duyên kiếp chỉ thế thôi. Sao mệnh bạc như vôi? Nước đã trôi qua làng ơi Kim Lăng ơi! Hỡi Kim Lăng! Thôi đi, tôi đỡ nó từ đây rồi!
II. Vài nét về tác giả Nguyễn Du
1. Cuộc sống
Nguyễn Du sinh năm 1765 tại Thăng Long, tên là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên.
– Tổ tiên Nguyễn Du quê ở làng Canh Hoạch, huyện Thanh Oai, trấn Sơn Nam (nay thuộc Hà Nội), sau di cư vào xã Nghi Xuân, huyện Tiên Điền (nay là làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà). tĩnh).
– Cha là Nguyễn Nghiễm (1708 – 1775), mẹ là Trần Thị Tần (1740 – 1778).
– Vợ Nguyễn Du là con gái Đoàn Nguyên Thục, quê ở Quỳnh Côi, thành Sơn Nam (nay thuộc Thái Bình).
– Thuở nhỏ và niên thiếu, Nguyễn Du sống ở Thăng Long trong một gia đình phong kiến quyền quý.
– Năm 10 tuổi, Nguyễn Du mồ côi cha.
– Năm 13 tuổi, mồ côi mẹ, Nguyễn Du đến ở với người anh cùng cha khác mẹ là Nguyễn Khản.
– Trong thời gian này, ông có dịp tìm hiểu cuộc sống giàu sang, xa hoa của tầng lớp quý tộc phong kiến - điều đã để lại dấu ấn trong các sáng tác sau này của ông.
– Năm 1783, Nguyễn Du đi thi Hương đỗ tam trường (văn bằng) và thi đỗ quan võ ở Thái Nguyên.
– Từ năm 1789, Nguyễn Du đã rơi vào cuộc sống hơn chục năm khó khăn, gian khổ ở nhiều vùng quê khác nhau, chính điều này đã tạo điều kiện cho Nguyễn Du có một đời sống thực tiễn phong phú, thúc đẩy ông suy nghĩ nhiều về xã hội. hoàn cảnh tạo tiền đề cho việc hình thành tài năng và bản lĩnh văn chương.
– Sau nhiều năm bôn ba khắp các làng xóm, năm 1802, Nguyễn Du làm quan cho nhà Nguyễn.
– Năm 1802, ông nhậm chức Tri huyện Phù Dung (nay thuộc Khoái Châu, Hưng Yên), sau đổi làm Tri phủ Thường Tín (nay thuộc Hà Nội).
– Năm 1809, Nguyễn Du được bổ làm Tổng đốc dinh Quảng Bình.
– Năm 1813, ông được thăng Tham tri học sĩ Cần Chánh kiêm giữ chức Chánh sứ đi sứ ở Trung Quốc.
– Khi sang Trung Quốc, Nguyễn Du đã trực tiếp tiếp xúc với nền văn hóa mà ông đã quen thuộc từ thuở nhỏ.
– Năm 1820, Nguyễn Du được cử làm chánh sứ sang Trung Quốc, chưa kịp đi thì ông mất ngày 10/8/1820.
– Năm 1965, Hội đồng hòa bình thế giới công nhận Nguyễn Du là danh nhân văn hóa thế giới.
2. Sự nghiệp văn chương
Một. thành phần chính
* Sáng tác chữ Hán: gồm 249 bài thơ chữ Hán của Nguyễn Du sáng tác vào các thời điểm khác nhau.
– Thanh Hiên thi tập (A collection of Thanh Hien thi ca): 78 bài phần lớn vào những năm trước khi ông làm quan nhà Nguyễn.
=> Thơ chữ Hán của Nguyễn Du thể hiện tư tưởng, tình cảm và nhân cách của ông.
* Sáng tác bằng chữ Nôm: Đoạn trường tân thanh (Truyện Kiều) và hồn Văn Chiêu.
b. Vài nét về nội dung và nghệ thuật thơ văn Nguyễn Du
* Đặc điểm nội dung:
– Tình yêu chân thành và niềm cảm thông sâu sắc của tác giả đối với cuộc đời và con người, đặc biệt là những thân phận bé nhỏ, bất hạnh là người phụ nữ.
– Nguyễn Du đã đề cập đến một vấn đề rất mới, nhưng cũng rất quan trọng của chủ nghĩa nhân văn trong văn học: xã hội phải tôn trọng những giá trị tinh thần, vì vậy phải tôn trọng những người sáng tạo ra những giá trị tinh thần đó.
Sáng tác của Nguyễn Du cũng đề cao hạnh phúc của con người tự nhiên và trần gian.
=> Nguyễn Du là tác giả tiêu biểu của trào lưu văn học nhân đạo cuối thế kỉ 18 – đầu thế kỉ 19.
* Nét nghệ thuật
– Thể thơ phong phú: thể thơ cổ, ngũ ngôn, thất ngôn luật và ca, hành khúc (nhạc quản)…
– Góp phần trau dồi văn tự quốc ngữ, làm phong phú tiếng Việt thông qua việc Việt hóa các yếu tố ngôn ngữ du nhập.
III. Giới thiệu về đoạn văn “The Giving of Grace”
1. Hoàn cảnh sáng tác
– Trích đoạn “Tấn Kiều” (Tấn Thanh Trường).
– Các đoạn từ dòng 723 đến 756 trong Truyện Kiều là của Gia Biến và Lưu Biểu. Đây là lời Thúy Kiều nói với Thúy Vân khi muốn nhờ Vân trả nghĩa cho Kim Trọng và nàng đã bán mình chuộc cha.
2. Trình bày
Nó bao gồm 3 phần:
- Phần 1: Từ Thuở Đến Chín Suối Cười Vẫn Còn Thơm. Kiều thuyết phục chàng và trao duyên cho Thúy Vân.
- Phần 2: Tiếp đến “Vẩy một cốc nước lên người bị oan”. Kiều đưa cho tôi tờ đính hôn kèm theo lời chỉ dẫn.
- Phần 3. Phần còn lại. Nỗi đau đớn, dằn vặt của Thúy Kiều.
3. Ý nghĩa nhan đề
– Trao duyên: Trao duyên, trao gửi tình yêu của mình cho người khác, xin họ nối lại mối duyên dang dở.
– Tựa đề: “Trao Một Tình Yêu”: Kẻ ác vu oan cho gia đình Thúy Kiều, nàng buộc phải hy sinh tình yêu của mình cho Kim Trọng, bán đứng họ để hối lộ để cha và em không khuất phục trước sự tra tấn dã man của nàng. . Việc mua bán xong xuôi, nàng trằn trọc suốt đêm nghĩ về mối tình dang dở của mình, rồi nhờ em gái là Thúy Vân đi cưới Kim Trọng thay mình.
=> Nhan đề truyền tải nội dung của đoạn văn.
4. Nội dung
Qua đoạn “Trao duyên”, tác giả Nguyễn Du đã khắc họa được bi kịch tình yêu, cùng số phận bất hạnh cũng như nhân cách cao đẹp của Thúy Kiều.
5. Nghệ thuật
- Nghệ thuật khắc họa nội tâm nhân vật.
- Sử dụng hình ảnh tượng trưng, ước lệ…
- Sử dụng thành công ngôn ngữ và thể thơ dân tộc.
Chaolong TV cảm ơn bạn đã đọc bài viết Đoạn trích Trao duyên Trích từ câu 723 đến câu 756, Truyện Kiều của Nguyễn Du , hy vọng rằng những thông tin chúng tôi chia sẻ sẽ hữu ích cho bạn. Đừng quên Cháo Lòng TV là website trực tiếp bóng đá miễn phí, tốc độ cao, được yêu thích nhất hiện nay nhé !