Việt Nam được đánh giá là một trong 25 quốc gia có tính đa dạng sinh học cao. Tuy nhiên, cũng như nhiều quốc gia khác, chúng ta đang phải đối mặt với nhiều thách thức khi bảo tồn đa dạng sinh học gắn liền với phát triển kinh tế và ổn định xã hội.
Đa dạng sinh học là một thuật ngữ chung chỉ sự đa dạng của các loài trong tự nhiên. Những loài này bao gồm thực vật, động vật, vi sinh vật, hệ sinh thái và các quá trình sinh thái mà chúng là một phần.
Hiện nay, trên thế giới có khoảng 30 triệu loài sinh vật. Có sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các loài.
Ví dụ: Thực vật biến quang năng thành thức ăn cho động vật, nhưng ngược lại thực vật cũng nhờ động vật như hoa, ong để chuyển phấn hoa…; Loài này là thức ăn của loài khác… Thực vật, động vật và vi sinh vật đều có gen di truyền và thông tin chứa trong các gen này là thông tin hữu ích cho việc phát triển các loại thuốc trừ sâu tự nhiên, các loài động vật và thực vật có sức đề kháng cao. sự đa dạng của các loài. Trạng thái đa dạng của nơi ở, quần xã sinh vật và các quá trình sinh thái được gọi là đa dạng sinh thái.
Các hoạt động của con người đã đẩy nhanh tốc độ tuyệt chủng của các loài. Con người săn bắt và khai thác bừa bãi các loài động vật hoang dã, rừng hoặc sự xuất hiện quá mức của các loài làm ảnh hưởng đến các loài khác (ốc bươu vàng ở Việt Nam, Philippin; trinh nữ hoa, vịt Nhật Bản, v.v.), thỏ ở Úc… Chương trình Môi trường của Liên hợp quốc (UNEP) ) ước tính có khoảng 22 triệu loài động vật, trong đó 1,5 triệu loài đã được mô tả; 7 triệu con có nguy cơ tuyệt chủng trong 30 năm tới; Ba phần tư số loài chim trên thế giới đang suy giảm; một phần tư số động vật có vú có nguy cơ tuyệt chủng Trong nông nghiệp, một số giống cây trồng bị mất hàng năm, bao gồm cả những giống được mô tả trong đơn đặt hàng. Vì vậy, bảo tồn môi trường sống và bảo tồn loài đã trở thành vấn đề môi trường cấp bách nhất hiện nay.
Việt Nam, là một trong 12 trung tâm đa dạng sinh học của thế giới, có nguồn gen quý hiếm vô cùng phong phú và đa dạng. Để bảo tồn và phát triển bền vững tài nguyên thiên nhiên, phục vụ chiến lược phát triển kinh tế – xã hội và bảo vệ môi trường, thời gian qua, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã tập trung xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật về đa dạng sinh học; quy hoạch bảo tồn đa dạng sinh học trên cả nước… Đến nay, chúng ta đã xác lập 173 khu bảo tồn, trong đó có 33 vườn quốc gia; 66 khu bảo tồn thiên nhiên; 18 khu bảo tồn loài và sinh cảnh; 56 khu vực bảo vệ cảnh quan. Cả nước cũng có 9 vùng đất ngập nước được công nhận là khu Ramsar thế giới; 23 tỉnh phê duyệt quy hoạch bảo tồn đa dạng sinh học cấp tỉnh, thành phố…
Theo kết quả nghiên cứu, Việt Nam nằm ở điểm trung chuyển của nhiều dòng chảy sinh vật: phía Đông có đặc điểm địa sinh vật của dãy Himalaya; Nam Bộ có các kiểu hệ sinh thái tương tự hệ sinh thái biển và lục địa của Đông Nam Á; Dãy Trường Sơn là vùng chuyển tiếp giữa khí hậu nhiệt đới và cận nhiệt đới. Ngoài các dãy núi, Việt Nam còn có 16 hệ thống sông lớn, trong đó có hơn 10 hệ thống sông có lưu vực trên 10.000 km2 như hệ thống sông Hồng, sông Cửu Long, sông Đồng Nai. Đối với hệ sinh thái rừng, Việt Nam còn có nhiều kiểu hệ sinh thái khác như đồng cỏ, đất ngập nước nội địa, cồn cát, bãi bồi ven biển, cửa sông, thảm cỏ biển, rạn san hô và vùng biển sâu. Song song đó là các hệ sinh thái nhân tạo như hồ đập, đất nông nghiệp, đô thị Đa dạng sinh học ở Việt Nam đứng thứ 16 trên thế giới. Một thống kê chưa đầy đủ cho thấy Việt Nam là nơi sinh sống của 13.766 loài thực vật, 10.300 loài động vật trên cạn (312 loài thú, 840 loài chim, 167 loài lưỡng cư, 317 loài bò sát và hơn 7.700 loài thú và nhiều loài khác). động vật không xương sống). Số loài nước ngọt đã biết là hơn 1438 loài vi tảo, 800 loài động vật không xương sống, 1028 loài cá nước ngọt. Số lượng loài sinh vật biển đã biết là hơn 11.000 loài (6.300 loài cá đáy, 2.500 loài cá biển, 653 loài rong biển, 657 loài động vật phù du, 537 loài thực vật phù du, 94 loài 25 loài thực vật ngập mặn, 94 loài cây ngập mặn. , 25 loài thú, 25 loài cây ngập mặn, 25 loài bà mẹ, 25 loài cây ngập mặn và 225 loài thú biển). tôm, 14 loài cỏ biển, 15 loài rắn biển, 25 loài thú biển và 5 loài rùa biển).
Vai trò của ngành bảo tồn đa dạng sinh học ngày càng lớn và đã trở thành một phần mở rộng về mặt xã hội, kinh tế, chính trị; liên quan đến các chiến dịch nâng cao nhận thức như một phần của nền kinh tế bền vững [20]. Ở Việt Nam, công tác bảo tồn đa dạng sinh học bắt nguồn từ khi chính phủ thành lập Vườn quốc gia Cúc Phương (1962), mở đầu cho hệ thống các vườn quốc gia và khu rừng đặc dụng ở Việt Nam. Sự hình thành hệ thống pháp luật liên quan đến đa dạng sinh học sau này đã khẳng định hệ thống chính trị của Việt Nam đã coi bảo tồn đa dạng sinh học là vấn đề quốc gia và gắn nó với kinh tế, phát triển kinh tế. Tuy nhiên, trong bối cảnh phát triển hiện nay, công tác bảo tồn đa dạng sinh học ở Việt Nam đang đứng trước nhiều thách thức, đòi hỏi sự chung tay của toàn xã hội.
Thứ nhất là thách thức ổn định hệ sinh thái hiện có để đảm bảo sự tồn tại và phát triển của loài. Mặc dù Việt Nam đã công bố Chiến lược quốc gia bảo tồn đa dạng sinh học, quy hoạch hệ thống rừng đặc dụng và khu bảo tồn biển để bảo tồn đa dạng sinh học đến năm 2020, tầm nhìn 2030 (Quyết định số QĐ 45/QĐ-TTg ngày 1/8/2014) . Tuy nhiên, có thể thấy diện tích bảo tồn của các khu bảo tồn không đủ lớn (đa số dưới 50.000 ha) để chứa nhiều loài động vật lớn như voi, hổ. Ngoài ra, tác động của biến đổi khí hậu cũng đe dọa tính đa dạng sinh học của Việt Nam. Ước tính ít nhất 38,9% diện tích Đồng bằng sông Cửu Long và 16,8% diện tích Đồng bằng sông Hồng sẽ bị ngập nếu nước biển dâng thêm 100 cm. [21]. Hệ sinh thái ven biển Việt Nam cũng bị ảnh hưởng [22]. Tất nhiên, đây là thách thức không nhỏ và cần có thêm những nghiên cứu liên quan để tìm ngay giải pháp thích ứng, thách thức tiếp theo là ổn định môi trường trong khuôn khổ phát triển kinh tế. Việt Nam được đánh giá là quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh trong khu vực và thế giới, bình quân 6,53%/năm giai đoạn 2000-2017 (số liệu của Tổng cục Thống kê). Tuy nhiên, cùng với sự phát triển kinh tế, tình trạng ô nhiễm ngày càng gia tăng, đe dọa môi trường sống của nhiều loài động, thực vật, đặc biệt nặng nề đối với các thủy vực. [23]. Ngoài ra, sự phát triển nhanh chóng cũng dẫn đến chuyển đổi đất đai nhanh chóng và mở rộng đô thị [24], đã làm giảm một phần diện tích sinh cảnh tự nhiên, làm giảm không gian sống của các loài động, thực vật hoang dã. Ngoài ra, việc hình thành hệ thống cơ sở giao thông, cơ sở hạ tầng phục vụ phát triển kinh tế càng làm tăng khả năng cách ly giữa các khu bảo tồn. Rõ ràng, sức ép phát triển kinh tế và sức ép bảo tồn đa dạng sinh học, môi trường đòi hỏi các quốc gia phải thay đổi cách tiếp cận phát triển kinh tế, hướng tới một nền kinh tế phát triển bền vững và có thể thấy, Việt Nam không thể tránh khỏi xu thế này. nhận thức cộng đồng. Các chiến dịch nâng cao nhận thức là một phần quan trọng của bảo tồn đa dạng sinh học [21]. Trong thời gian qua, công tác nâng cao nhận thức của người dân sống xung quanh các khu rừng đặc dụng (VQG, KBTTN) đã được chú trọng. Nhưng có thể thấy trình độ học vấn và mức sống của người dân ở những khu vực này là một trở ngại lớn trong việc tiếp thu kiến thức. Bên cạnh đó, nhận thức về bảo tồn đa dạng sinh học ở Việt Nam chưa được chú trọng ở khu vực đô thị, trong khi tiềm năng xã hội huy động cho công tác này chủ yếu tập trung ở đây trong việc thực thi các luật liên quan đến đa dạng sinh học. Điều hữu ích là hệ thống pháp luật của Việt Nam liên quan đến các loài quý hiếm và ưu tiên bảo tồn đã được thiết lập, bao gồm danh sách các loài và hình phạt. Tuy nhiên, hệ thống pháp luật, chính sách này còn thiếu các văn bản hướng dẫn thi hành, giữa chính sách và pháp luật còn có sự chồng chéo về trách nhiệm cũng như thiếu các giải thích chi tiết dẫn đến mâu thuẫn giữa các cơ quan, các văn bản quy phạm pháp luật, gây khó khăn trong quá trình thực hiện. . . [2]. Vì vậy, trong tương lai, các dự án cải thiện khung pháp lý và chính sách liên quan đến đa dạng sinh học của Việt Nam nên là một trong những ưu tiên quốc gia.
Bảo tồn, phục hồi đa dạng sinh học là một trong 3 trọng tâm của Chiến lược quốc gia về đa dạng sinh học (ĐDSH) đến năm 2030, tầm nhìn 2050 mà Thủ tướng Chính phủ vừa phê duyệt. Mục tiêu là đến năm 2030, chúng ta sẽ phục hồi ít nhất 20% hệ sinh thái tự nhiên bị suy thoái.
Để thực hiện công tác bảo tồn và phục hồi đa dạng sinh học, Việt Nam đã xác định giải pháp tối ưu để quản lý hiệu quả hệ thống di sản thiên nhiên và các khu bảo tồn; Củng cố, mở rộng các khu vực tự nhiên có tầm quan trọng quốc gia, quốc tế và phục hồi các hệ sinh thái tự nhiên quan trọng bị suy thoái..
Hoàn thiện pháp luật và thể chế quản lý, kịp thời sửa đổi, hoàn thiện và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về đa dạng sinh học, bảo đảm tính bền vững và hiệu quả; Chú ý xem xét mức xử phạt đối với các hành vi vi phạm quy định về đa dạng sinh học và hiệu quả của việc ngăn chặn; Hướng dẫn lồng ghép bảo tồn ĐDSH vào quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch một số ngành trọng điểm (nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản) và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
Quản lý hiệu quả hệ thống di sản và khu bảo tồn
Nghĩa là thực hiện có hiệu quả Quy hoạch bảo tồn đa dạng sinh học quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Trên cơ sở các quy hoạch đã được phê duyệt, tiếp tục củng cố, mở rộng hệ thống các di sản thiên nhiên, khu bảo tồn thiên nhiên; khuyến khích thành lập các khu bảo tồn đất ngập nước và biển; tạo lập và quản lý bền vững các hành lang đa dạng sinh học kết nối các khu bảo tồn thiên nhiên.
Phục hồi hệ sinh tháiMột số hệ sinh thái bị suy thoái sẽ được quy hoạch phục hồi như rừng ngập mặn, rạn san hô, đáy biển, ưu tiên các khu bảo tồn biển; bảo vệ các khu vực phục hồi tự nhiên rạn san hô, đáy biển bị suy thoái.
Chaolong TV cảm ơn bạn đã đọc bài viết Thực trạng và các giải pháp , hy vọng rằng những thông tin chúng tôi chia sẻ sẽ hữu ích cho bạn. Đừng quên Cháo Lòng TV là website trực tiếp bóng đá miễn phí, tốc độ cao, được yêu thích nhất hiện nay nhé !