Trong lịch sử đấu tranh hào hùng chống ngoại xâm, dân tộc đã có biết bao cuộc khởi nghĩa hào hùng, anh dũng. Trong đó, câu chuyện về Hai Bà Trưng được nhắc đến như một trong những chiến công hiển hách nhất, đánh tan quân Nam Hán, giành độc lập tự do cho dân tộc.
1. Tìm hiểu tiểu sử Hai Bà Trưng
Trưng Trắc và Trưng Nhị là hai chị em song sinh (sinh ngày mồng 1 tháng 8 năm Giáp Tuất, năm 14 sau Công nguyên), con gái của Lạc tướng huyện Mê Linh (tộc trưởng huyện Mê Linh, thuộc đến Huyện Mê Linh, thuộc Huyện Mê Linh) Tỉnh Vĩnh Phúc ngày nay) thuộc dòng dõi Hùng Vương. Mẹ cô là bà Man Thiện.
Hai mẹ con mồ côi cha sớm, nhưng được mẹ nuôi nấng, dạy trồng dâu nuôi tằm, dạy con yêu nước, rèn luyện sức khỏe, luyện võ. Chồng của Trưng Trắc là Thi Sách, con Lạc tướng huyện Chu Diên (Hà Tây ngày nay).
Trong sử sách, hai bà được biết đến là những thủ lĩnh khởi nghĩa chống chính quyền đô hộ Đông Hán, lập nước, đóng đô ở Mê Linh, Trưng Trắc xưng làm Hoàng hậu. Thời kỳ hai người phụ nữ luân phiên nhau giữa Bắc phạt thứ nhất và thứ hai trong lịch sử Việt Nam. Đại Việt sử ký toàn thư chép rằng Trưng Trắc là một vị vua trong lịch sử, tên là Trưng Nữ Vương.
2. Truyện Hai Bà Trưng: Tìm hiểu cuộc khởi nghĩa chống quân Nam Hán
Năm 19 tuổi, Trưng Trắc được gả cho con trai Lạc tướng quân Chu Diên quận công là Thi Sách, tức là năm Nhâm Thìn (32 sau Công nguyên). Vợ chồng đoàn tụ được mấy năm thì Thi Sách bị Tô Định giết vì con của hai tướng lấy nhau, trở thành một thế lực lớn, không còn chỗ cho sự thống trị của nhà Hán.
Căm giận giặc bạo ngược, vì nợ nước nay lại thêm chuyện gia tộc, bà Trác cùng em là Nhĩ mở chiến dịch khắp quận Giao Chỉ, chiêu tập lạc hầu, tướng sĩ, kêu gọi quân dân cùng nhau vùng dậy, đánh giặc. Các quận Cửu Chân và Nhật Nam được tin Giao Chỉ nổi dậy để hưởng ứng.
“Xin rửa sạch nước thù
Bố phàn nàn về trái tim của chồng
Bốn hãy hoàn thành nghĩa vụ công ích này”
Bà Trưng Trắc thực hiện tổ chức tích trữ lương thực, vận động chiêu tập, trọng dụng anh hùng hào kiệt trong thiên hạ, người cùng chí hướng, chiêu binh mãi tướng ở các địa phương nên nhân dân theo ngày càng đông. Năm 40, Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa ở huyện Mê Linh.
Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng chia làm hai giai đoạn:
Lần đầu tiên: AD 40
Hai Hà Trưng là Trưng Trắc và Trưng Nhị phất cờ khởi nghĩa vào mùa xuân năm 40 ở Hát Môn (nay là xã Hát Môn – Phúc Thọ – Hà Nội).
Khởi nghĩa Hai Bà Trưng nổ ra, thu hút nhân tài khắp nơi tham gia. Quân khởi nghĩa nhanh chóng đánh tan quân Hán, chiếm Mê Linh rồi tiến về Cổ Loa, Luy Châu. Tô Định bỏ thành chạy về Nam Hải. Các lực lượng Hán ở các quận khác cũng bị đánh bại. Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng sau 40 năm giành thắng lợi hoàn toàn.
Lần thứ hai: 42 sau Công nguyên
Sau khi chiếm được Hợp Phố, Mã Viện chia quân làm 2 đường thủy bộ tiến về Lục Đầu, gặp nhau ở Lãng Bạc:
Lục Tốn: theo đường biển, lẻn qua Ma Môn đổ bộ lên Lục Tốn.
Thủy binh: từ Hải Môn vượt biển vào sông Bạch Đằng, rồi từ Thái Bình vào Lục Đầu.
Nhận được tin báo, Hai Bà Trưng rút quân khỏi Mê Linh về đánh giặc ở Lãng Bạc. Quân ta giữ Cổ Loa và Mê Linh, nhưng Mã Viện vẫn tiếp tục truy kích, buộc quân ta phải rút về Cẩm Khê (nay thuộc Ba Vì – Hà Nội). Tháng 3 năm 43, Hai Bà Trưng mất ở Cẩm Khê. Sự kháng cự vẫn tiếp tục cho đến ngày 43 tháng 11 trước khi nó kết thúc.
Theo Vũ Lan (Sinh viên Cao Đẳng Hộ Sinh Khánh Hòa) tổng hợp
Chaolong TV cảm ơn bạn đã đọc bài viết Tiểu sử và cuộc khởi nghĩa chống quân Nam , hy vọng rằng những thông tin chúng tôi chia sẻ sẽ hữu ích cho bạn. Đừng quên Cháo Lòng TV là website trực tiếp bóng đá miễn phí, tốc độ cao, được yêu thích nhất hiện nay nhé !