Trình bày cảm nhận về vẻ đẹp của ngôn ngữ nghệ thuật qua đoạn

Rate this post

Đề bài: Em hãy trình bày cảm nhận của mình về vẻ đẹp của ngôn ngữ nghệ thuật qua đoạn văn

Anh về với em chúc em ngủ ngon qua cuộc trao đổi Duyên

Bài văn mẫu Nêu cảm nhận về vẻ đẹp của ngôn ngữ nghệ thuật qua đoạn văn

Bài ví dụ: Trình bày cảm nghĩ về vẻ đẹp của ngôn ngữ nghệ thuật qua đoạn văn “Trao duyên”

Nhắc đến Nguyễn Du là nhắc đến Truyện Kiều, tác phẩm đã làm nên tên tuổi của Nguyễn Du nói riêng và nền văn học nước nhà nói chung. Được coi là chuẩn mực của ngôn tình, Truyện Kiều đã để lại dấu ấn trong lòng người đọc đối với nhân vật Thúy Kiều, một cô gái tài sắc vẹn toàn nhưng lại có số phận bất hạnh, lận đận. Đoạn “Trao duyên” được coi là một minh chứng đặc sắc cho nghệ thuật sử dụng ngôn từ tài tình, sâu sắc của tác giả, mang đến cho người đọc cái nhìn đa chiều về tính hình thức, sức gợi và tính bao quát, cụ thể hóa trong việc sử dụng ngôn ngữ.

Ngôn ngữ sử dụng trong tác phẩm văn học luôn là yếu tố quan trọng hàng đầu, quyết định vị trí của tác phẩm đó trên bản đồ văn học. Ngay từ khi cầm bút, người nghệ sĩ phải thận trọng lựa chọn phong cách ngôn ngữ, đảm bảo cả nội dung và hình thức, tuân theo chuẩn mực nghệ thuật và cần có cái tôi cá nhân. Một tác phẩm thơ cần vận dụng nhiều yếu tố của nghệ thuật ngôn từ, đòi hỏi khả năng lựa chọn từ ngữ chính xác, ngắn gọn, súc tích nhưng hàm chứa nhiều tầng ý, khơi gợi cho người đọc những suy nghĩ nghiên cứu. Ngôn ngữ nghệ thuật là ngôn ngữ văn học, ngôn từ văn học phải có sức gợi, có trật tự và được chọn lọc kĩ lưỡng để chuyển tải nội dung, tư tưởng của nhà văn.

Trong đoạn, ngôn ngữ nghệ thuật được thể hiện trên ba phương diện: tính thông tin, tính chắc chắn về nội dung, diễn biến sự việc, hình tượng gợi hình, sức gợi cảm hiện thực và tính cá thể hóa, bộc lộ tư tưởng, tình cảm cụ thể của nhân vật. Bằng tài năng thiên bẩm và vốn kiến ​​thức sâu rộng, Nguyễn Du đã kết hợp hài hòa các yếu tố trên, tạo nên một tổng thể vừa chuẩn mực, vừa ngắn gọn, vừa đặc sắc, gợi tả, gợi cảm.

Vẻ đẹp của ngôn ngữ nghệ thuật trong Trao duyên trước hết được bộc lộ qua chức năng thông tin. Mỗi tác phẩm văn học đều phải có nội dung chuyển tải đến người đọc thông qua ngôn ngữ. Cuộc đời Thúy Kiều mở ra với bao bi kịch đau khổ, gia đình bị tai nạn, những tháng ngày êm đềm bỗng chốc tan thành mây khói, nàng buộc phải bán mình chuộc cha, xa rời mối tình đầu say đắm với Kim Trọng. Trong tình thế bất đắc dĩ ấy, nàng đã đồng ý trao tình yêu màu hồng của mình cho em gái Thúy Vân, mong nàng sẽ thay chàng giữ trọn lời thề với Kim Trọng. Sự hấp dẫn nằm ở chỗ, tác giả không thuật lại những sự việc ấy bằng giọng kể của người kể mà thông qua lời kể của nhân vật Kiều, tính chất giao tiếp của lời nói đưa người đọc đến gần hơn với nội dung câu chuyện trong một cách tinh tế, uyển chuyển. Nỗi đau khổ dày vò tâm trạng Thúy Kiều, tiếng kêu đau đớn của một số phận nghiệt ngã và bi kịch của một mối tình tan vỡ, dường như tác giả đã nhập vào nhân vật, mượn lời của nhân vật để nói lên nhân vật là một tai họa như thế nào. Chức năng thông tin của nghệ thuật khẩu ngữ đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, đưa người đọc từng bước đi vào tình huống của truyện mà không hề chủ quan, khô khan, ngược lại, người đọc có thể tự hình dung ra những nút thắt tâm trạng, tình huống của truyện. qua lời tự sự của nhân vật Kiều.

Tin tôi đi, tôi sẽ chấp nhận

Ngồi cho tôi và tôi sẽ nói

Thúy Kiều coi mình là chị cả trong gia đình, nhưng khi nhờ vả thì phải “tin”, phải xin ý kiến ​​của nàng qua “vâng lời”. Bởi nàng biết, việc nàng nhờ mình đến đây là điều khó chấp nhận nhưng Thụy Vân sẽ không đời nào từ chối nàng. “Vĩnh biệt” và “thưa em”, Nguyễn Du để Thúy Kiều kể lại câu chuyện tình éo le của mình trong tâm thế của một kẻ nghiện ngập muốn người khác giúp đỡ mình. Những từ ngữ đắt giá không chỉ nói lên cảnh ngộ của Thúy Kiều mà còn thể hiện niềm khao khát, thiết tha chờ đợi người em gái nhận lời nguyện cầu.

Vào thẳng vấn đề, Thúy Kiều bày tỏ và tâm sự với Thúy Vân về mối tình say đắm với Kim Trọng. “Quạt ước”, “chén thề”, những tiết mục bí mật giữa Kim và Kiều. Đêm ấy, với đất trời, trăng sao và lòng son sắt, hai người đã trao cho nhau chiếc quạt đính hôn và ly rượu thề nguyền. Rồi còn những “nàng son với hình mây”, “Phím đàn với hương nguyền năm xưa”, những kỷ niệm tình yêu mà Thúy Kiều trân trọng gìn giữ, nay trao cho em gái mong em nhận lại. Nó. chỗ của mình, tiếp tục cuộc tình với người yêu. Tuy nhiên, trong giây phút đau khổ, cô vẫn muốn níu kéo chút tình yêu đôi lứa:

Số phận này được nắm giữ, điều này được chia sẻ

Nỗi nhớ nhung da diết khiến Kiều phải đấu tranh tư tưởng, không đủ tỉnh táo nữa. Rõ ràng là số phận đã trao, có tư cách tin tưởng nhưng cô vẫn muốn “của chung này”, vẫn muốn lưu giữ những kỷ niệm khó quên giữa cô và người yêu. Con gái, con gái mới yêu lần đầu, chưa thể cam tâm cắt đứt hoàn toàn mối tình cũng là điều dễ hiểu, chỉ muốn giữ lại chút ít cho riêng mình. Tình cảm chân thật của Thúy Kiều gợi lên ở người đọc sự đồng cảm, thấu hiểu nỗi ưu phiền của nàng, hiểu vì sao nàng muốn giữ nó làm tài sản chung. Tình yêu vẫn nồng nàn như vậy, không nỡ dứt ra.

Một chi tiết đắt giá thể hiện hình tượng vẻ đẹp của ngôn ngữ nghệ thuật là lúc Kiều nghĩ đến cái chết. Cô gái trong đêm rằm vẫn tràn đầy sức sống như thế nhưng trước cảnh chia ly, tâm trí cô chỉ xoay quanh kết cục bi thảm, cái chết.

Tâm hồn trĩu nặng lời thề

“Rối liễu”, “tre trúc mai” vốn là những hình ảnh tượng trưng được biết đến trong văn học, thơ ca, mang ý nghĩa tượng trưng, ​​gợi lên hình bóng mong manh, yếu đuối của người con gái. Đối với Thúy Kiều, đó không chỉ là thân phận thanh cao, thoát tục mà “cây liễu”, “tre trúc mai” còn là một lời than thở cho số phận lỡ làng, phận người lưu manh mà nàng phải gánh lấy. Ra đi không đợi ngày trở về, trước mắt cô là một tương lai đen tối mịt mù, là cái chết vĩnh viễn, bị chà đạp, tự do cho cái chết. Tiếc cho một kiếp người, còn trẻ, còn biết yêu, biết rung động đã tự đưa mình đến gần cái chết. Tác giả không nói đến những đau khổ, không trực tiếp nói đến mối tình say đắm của Thúy Kiều và Kim Trọng, nhưng ở dòng cuối bài thơ, tiếng khóc của Kiều đã thể hiện rõ những bi kịch mà nàng gặp phải:

Hỡi Kim Lăng! Này Kim Lăng!

Thôi nào, tôi đã có lưng của bạn từ đây

Kiều gọi Kim Trọng là “lãng”, là cách gọi chồng ngày xưa của đàn bà. Đối với Kiều, Kim không còn chỉ là một người bạn gái mà là một người chồng, một người chồng mà nàng tin cậy vào số mệnh của mình. Vị trí của Kim Trọng trong lòng nàng thật lớn. Nhưng giờ đây, cô phải đồng ý ra đi, đồng ý từ bỏ tình yêu vẫn còn cháy bỏng với anh, vì chữ hiếu, vì cô phải bán thân đổi lấy hạnh phúc cho những người thân yêu. Cô đã phản bội trái tim của Kim chỉ bằng một câu nói đầy đủ. Bi kịch của tình yêu tan vỡ, trái tim tan vỡ vẫn khóc trong tình yêu. Ngôn ngữ nghệ thuật đã bao trùm trọn vẹn cung bậc cảm xúc của nhân vật Kiều, người đọc dường như có thể đồng cảm với những diễn biến tâm trạng của nàng, từ cam chịu nhớ nhung đến đau khổ tột cùng nhưng vẫn phải đối diện với sự thật phũ phàng. Tác giả đã đánh động trái tim, lòng trắc ẩn của người đọc để cùng chia sẻ nỗi đau với nhân vật.

Vẻ đẹp của ngôn ngữ nghệ thuật trong “Trao duyên” còn thể hiện ở sự cá thể hóa, qua đó Thúy Kiều bộc lộ cá tính độc đáo, không lẫn vào đâu được. Từng câu chữ trong tác phẩm đều tập trung miêu tả số phận bất hạnh của Kiều Hồng Nhạn mà thân phận, mỗi trang thơ là một trang đẫm nước mắt và tiếc thương cho người phụ nữ bất hạnh. Thúy Kiều hiện lên qua trang viết của Nguyễn Du là một cô gái phải chăng, biết suy nghĩ, tấm bia cho cha mẹ, sẵn sàng hy sinh hạnh phúc của mình nhưng cũng vô cùng sắc sảo, chủ động nhường nhịn em gái vì muốn giữ lời thề. Đáng chú ý, tính cách của Kiều thể hiện ở việc nàng quyến rũ Thúy Vân nhưng lại nhắc đến kỉ niệm nhỏ giữa nàng và Kim Trọng, bộc lộ tính cách của một cô gái thông minh, mạnh mẽ. “Trao duyên” thực chất là lời kể của Thúy Kiều về những cảm xúc lẫn lộn, giằng xé. Đau đớn, tiếc nuối khi đứng giữa những kí ức hạnh phúc và một tương lai bi thương, nhưng sự tinh tế, sắc sảo trong tâm hồn cô gái ấy vẫn được thể hiện một cách khéo léo. Qua mảnh vỡ ta cũng thấy được phong cách nghệ thuật mang tính nhân bản cao của Nguyễn Du, yêu thương con người, trân trọng và đồng cảm với những số phận éo le, bất hạnh.

Vẻ đẹp của ngôn ngữ và nghệ thuật qua “Trao duyên” đã làm nên kiệt tác Truyện Kiều, làm nên tên tuổi của Nguyễn Du không chỉ trong nước mà cả thế giới. Ngôn ngữ trong sáng, chọn lọc, nhiều tầng, gợi hình, gợi cảm và ba chức năng chính: thông tin, hình tượng và nhân hoá đã đưa Truyện Kiều trở thành chuẩn ngôn ngữ trong làng văn, thơ. Với tác phẩm này, thơ Nôm đã tạo nên một thành công phi thường, đưa chữ quốc ngữ của Việt Nam thời bấy giờ lên ngang tầm bản sắc văn hóa đặc sắc của dân tộc.

– BIỂU TƯỢNG PA-

Trao duyên là đoạn trích trong tác phẩm nổi tiếng Truyện Kiều của Đại thi hào Nguyễn Du, bên cạnh bài văn Trình bày cảm nhận về vẻ đẹp của ngôn ngữ nghệ thuật qua đoạn trích, các em cùng thầy cô tham khảo thêm các chi tiết bài văn khác như Cảm nghĩ của em đối với buổi đầu 12 dòng trong đoạn văn Trao duyên, Vẻ đẹp của ngôn ngữ nghệ thuật qua đoạn Trao duyên, Phân tích tâm trạng Thúy Kiều trong đoạn thơ Trao duyên, Cảm nhận về đoạn Trao duyên Những câu nói trao duyên trong Truyện Kiều, hay cả những các phần soạn văn lớp 10 – Trao duyên trích đoạn Truyện Kiều.

Chaolong TV cảm ơn bạn đã đọc bài viết Trình bày cảm nhận về vẻ đẹp của ngôn ngữ nghệ thuật qua đoạn , hy vọng rằng những thông tin chúng tôi chia sẻ sẽ hữu ích cho bạn. Đừng quên Cháo Lòng TV là website trực tiếp bóng đá miễn phí, tốc độ cao, được yêu thích nhất hiện nay nhé !

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *